10 nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình mới
Sáng nay 6/12, cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ, cơ quan
LĐLĐ tỉnh tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 6 khóa
XIII, nghe Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh
truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh
tế Trung ương Trần Tuấn Anh thông tin: Sau hơn 35 năm đổi mới, nhất
là trong 10 năm (2011 - 2020), công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng tăng trưởng được
cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển
dịch tích cực với tỉ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt
72,7% vào năm 2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình. Công nghiệp được cơ cấu lại theo hướng giảm tỉ trọng ngành khai
khoáng, tăng nhanh tỉ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; đã hình
thành được một số ngành công nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh
và vị trí vững chắc trên thị trường quốc tế. Ngành nông nghiệp tăng trưởng
ổn định và bền vững, từng bước được cơ cấu lại theo hướng hiện đại. Đóng góp của
ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng; đã hình thành được một số
ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Phát triển văn hoá, xã hội,
con người được quan tâm; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân không ngừng
được cải thiện.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, còn nhiều
hạn chế, bất cập như: mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020 không hoàn thành; tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược
đề ra, tốc độ có xu hướng giảm dần theo chu kỳ 10 năm; có nguy cơ tụt hậu và
rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao
động thấp, chậm được cải thiện; năng lực độc lập, tự chủ thấp, phụ thuộc nhiều
vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa
đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện
đại hoá; doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế; đổi mới và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể còn nhiều khó khăn. Công nghiệp phát triển thiếu bền vững, giá
trị gia tăng thấp, chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; các
ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công
nghiệp hỗ trợ, công nghiệp thông minh phát triển chậm. Các ngành dịch vụ quan
trọng chiếm tỉ trọng nhỏ, liên kết với các ngành sản xuất yếu. Đô thị hoá chưa
gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển văn
hoá, xã hội, con người, môi trường còn nhiều hạn chế, bất cập.
Nghị quyết xác định nguyên nhân của những
hạn chế, tồn tại chủ yếu là do: Nhận thức, lý luận, mô hình, mục tiêu, tiêu chí
về công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn nhiều nội dung chưa rõ, chưa sát thực tiễn,
còn chủ quan, duy ý chí; chưa có nghị quyết chuyên đề của Đảng về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Chưa xác định rõ trọng tâm ưu tiên phát triển các
ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn. Việc huy
động, phân bổ và sử dụng nguồn lực còn nhiều hạn chế, chưa hiệu quả; nguồn lực
của Nhà nước bố trí cho phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo còn
thấp, phân bổ, sử dụng chưa hiệu quả; thiếu
nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong lĩnh vực khoa học - công
nghệ, đổi mới sáng tạo. Thể chế, cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển; hệ thống các tiêu chuẩn, định mức còn lạc hậu, không
khuyến khích, thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ. Chỉ đạo và
tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục; năng lực thể chế hoá, cụ
thể hoá, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng còn hạn chế. Chưa
quan tâm kiểm tra, giám sát trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, địa phương và
người đứng đầu trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xác định
CNH, HĐH đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời
sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền
tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước
phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết đưa ra
mục tiêu tổng quát đến năm 2030, Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước
công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung
bình cao; đời sống của nhân dân được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng
7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD; bình
quân đầu người theo giá hiện hành đạt trên 7.000 USD; đưa nước ta thuộc nhóm 3
nước dẫn đầu ASEAN về năng lực cạnh tranh công nghiệp; tỷ trọng công nghiệp đạt
trên 40% GDP; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP; tỷ trọng
giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt
trên 45%; giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, chế biến bình quân đầu người đạt
trên 2.000 USD. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ đạt trên 50% GDP, trong đó du lịch
đạt 14-15% GDP… Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu
nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á.
Nghị quyết
đưa ra 10 nhiệm vụ, giải pháp: Một là, đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp
tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ba là,
xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng lực
ngành xây dựng. Bốn là, đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành
dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. Năm là, phát triển khoa học - công nghệ,
đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Sáu là, phát triển
kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hoá nhanh và bền vững, gắn kết
chặt chẽ và tạo động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bảy là, phát triển các thành phần kinh tế
nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tám là, đổi mới chính sách tài chính, tín dụng thúc đẩy công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước nhanh, bền vững. Chín
là, quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm
tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu;
tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả đi đôi với bảo vệ và phát triển
thị trường trong nước. Mười là, phát
huy giá trị văn hoá, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam, xây dựng giai cấp
công nhân hiện đại, lớn mạnh; đội ngũ trí thức và doanh nhân xung kích, đi đầu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
bảo đảm tốt an sinh xã hội.
Bùi
Sơn